Khi Chiến tranh Lạnh gần kế thúc với việc bức tường Berlin sụp đổ vào tháng 11/1989, những nhân viên làm việc tại trụ sở Tình báo Trung ương Mỹ CIA tại Langley, Virginia, cuối cùng cũng hy vọng tìm cách giải quyết các ẩn số lâu nay chưa được trả lời.

Một trong số đó là, vì sao các điệp viên của CIA trong vỏ bọc ngoại giao và ẩn mình rất kỹ trên khắp toàn cầu đều bị tình báo Nga khi đó là KGB lật tẩy. Hệ quả, rất nhiều chiến dịch bí mật đã bại lộ do các điệp viên nằm vùng bị chỉ điểm và nhân viên của CIA phải thoả hiệp, hoặc thậm chí tính mạng của họ bị đe doạ.

Trang Salon đăng tải bài viết của tác giả Jonathan Haslam giải thích, đó là các điệp viên Nga đã bị đánh giá quá thấp, trong khi các điệp viên CIA lại được để cao quá đáng.

Một trong những câu chuyện được kể lại đó là về Yuri Totrov – một huyền thoại thật sự được nhiều người sớm biết tới với câu chuyện tiếu lâm về giám đốc nhân sự mờ ám của CIA.

Chiến tranh Lạnh kết thúc, một nhân viên cấp cao và đầy kinh nghiệm được cử tới Nhật đề tìm Totrov và đưa cho ông này một số tiền lớn để mua lại các ‘hồi ký’ của ông. Totrov thẳng thừng đáp trả: “Anh chưa đọc những gì ghi trong hồ sơ của tôi ở Langley à? Trong đó đã nói rõ là ‘Không được bán”.

Vậy chính xác thì Totrov đã lập lại danh sách nhân sự của CIA mà không cần tiếp cận các hồ sơ đó, hay là những người sắp xếp chúng? Cách tiếp cận của ông đòi hỏi một sự kết hợp rất thông minh - gồm có sự am hiểu thâm sâu về hành vi con người, trí tuệ và logic chặt chẽ.

Trong thế giới của các mật vụ, nguyên tắc đầu tiên chính là binh pháp mà Tôn Tử đề ra: Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng.

KGB là cơ quan quan liêu trong một thể chế quan liêu là Liên bang Xô Viết. Bất kỳ công dân Liên Xô nào cũng quá quen với kiểu vận hành của các bộ máy quan liêu. Đó là các tạo vật về cơ bản được hình thành từ thói quen, cũng như với bất kỳ nhà giải mã nào, yếu tố then chốt để phá mã của đối phương đó chính là tìm những sự lặp lại. Điều này cũng tương tự như trong thế giới phản gián.

Sự khác biệt giữa Totrov và người dân nước ông là cho dù những người khác ở trong hay ngoài nước coi Liên Xô là một thể độc nhất, thì Totrov lại áp dụng hiểu biết về xã hội Liên Xô lên một xã hội mà bê ngoài thì có vẻ rất riêng biệt, nhưng dựa trên cách thức chính quyền vận hành thì thực tế chẳng có nhiều khác biệt: đó chính là với Hoa Kỳ.

Từ cuối những năm 1950, trong các nhiệm vụ tại Thái Lan và sau đó là tại Nhật – những nơi nằm trong tầm ảnh hưởng rất lớn của Mỹ, Totrov đã áp dụng các biện pháp đầu tiên của ông nhằm nhận diện các điệp viên Mỹ trên thực địa.

Trở lại Moscow, ông bắt đầu kết hợp một cách hệ thống các dữ liệu của KGB theo chiều hướng nhất quán có thể quan sát được từ việc bổ nhiệm các điệp viên CIA. Nghiên cứu này đã được mở rộng để đưa vào hồ sơ các đồng minh KGB là Cuba và khối Hiệp ước Vac-xa-va. Các nguồn tài liệu công khai của Hoa Kỳ cũng được khai thác triệt để. Và mọi dữ liệu được biên soạn từ cảnh sát địa phương đều được tiếp cận bất kể khi nào có thể.

Và rồi Totrov phát hiện ra một mô hình với 26 dấu hiệu không đổi khi nhận diện các điệp viên Mỹ ở hải ngoại. Một điệp viên phản gián nước ngoài tỉ mỉ có thể phát hiện ra một vài dấu hiệu khác thông thường hơn, chẳng hạn như: thực tế là các điệp viên CIA thế chỗ của nhau thường có xu hướng nhận một chức vụ tương tự trong thứ bậc của sứ quán, đi xe hơi cùng một hãng, thuê căn hộ chung một toà nhà… Vì sao? Bởi vì nhân viên CIA tại trụ sở ở Langley thoái thác trách nhiệm và không làm hết phận sự với các vị trí ở hải ngoại.

Tuy nhiên, với các dấu hiệu bất biến thì cần có sự nghiên cứu sâu hơn, dựa trên thực tế mà chính phủ Mỹ thiết lập từ lâu do bởi sự nửa yêu nửa ghét trong cách đối đãi của Bộ Ngoại giao với những người ‘anh em xa’ trong tình báo.

Do đó, một loạt các câu hỏi nhanh chóng được đặt ra làm bằng chứng: giữa một điệp viên trong vỏ bọc ngoại giao và một nhân viên đối ngoại (FSO) thì sự đối đãi khác nhau ở điểm nào? Mức chi tiêu cho nhân viên ngoại giao cao hơn nhiều so với một điệp viên CIA; sau ba hoặc bốn năm công tác nước ngoài, một FSO có thể về nước, nhưng một nhân viên tình báo thì không; FSO được tuyển mộ trong độ tuổi từ 21-31 còn nhân viên tình báo thì không; chỉ có FSO được tham gia Học viện Đối ngoại trong ba tháng trước khi nhận nhiệm vụ; người Mỹ nhập tịch không được làm FSO trong vòng 9 năm nhưng có thể làm đặc vụ; khi các nhân viên đặc vụ trở về nước, họ không xuất hiện bình thường trong danh sách của Bộ Ngoại giao; nếu họ xuất hiện thì họ được liệt vào dạng nghiên cứu và lên kế hoạch, nghiên cứu và tình báo, lãnh sự hoặc pháp lý cho các vấn đề an ninh; không như các FSO, nhân viên tình báo có thể thay đổi nơi làm việc mà không cần lý do nào cụ thể; các tiểu sử công khai của họ thường có những khoảng trống dễ thấy; các đặc vụ có thể được bố trí trở lại nước mà họ từng được điều tới còn FSO thì không; đặc vụ thường làm việc với hơn một ngoại ngữ; vỏ bọc của họ thường là nhân viên ‘lãnh sự’ hoặc ‘chính trị’; những lần tái tổ chức nội bộ của sứ quán thường không động chạm tới các điệp viên – bao gồm cả vị trí, không gian làm việc hay số điện thoại; nơi làm việc của các điệp viên được bố trí trong khu vực hạn chế qua lại trong sứ quán; họ có thể xuất hiện trên phố trong giờ làm việc, sử dụng các hộp điện thoại công cộng; họ có thể sắp xếp các cuộc hẹn cho buổi chiều, ở ngoại ô và thường vào lúc 7:30-8:00 tối; và trong khi các FSO phải tuân thủ nghiêm ngặt quy định tham gia tiệc tối, các điệp viên lại có thể không nhất thiết phải tham dự.

Thực tế Totrov có thể biên soạn thành một tập sách có cỡ ngang danh bạ điện thoại gồm các điệp viên của CIA cũng như các nhân viên tình báo khác cho lãnh đạo KGB Yuri Andropov thử nghiệm các khiếm khuyết về mặt cấu trúc trong chính quyền Mỹ trong mối quan hệ giữa các bộ then chốt trong phạm vi chính sách đối ngoại.

Những lỗ hổng then chốt mà Totrov đã chỉ ra sau đó được sơ đồ hoá và vẽ thành mô hình. Đây chính là hoạt động tình báo con người ở cấp cao nhất và một khi được biết đến, đó cũng là một mối nhức nhối cho những ai chịu trách nhiệm thực thi tình báo hải ngoại của Mỹ.

Lê Thu

" />

Vì sao CIA hay bị điệp viên Nga ‘lật tẩy’?

Kinh doanh 2025-03-27 10:47:39 5

Khi Chiến tranh Lạnh gần kế thúc với việc bức tường Berlin sụp đổ vào tháng 11/1989,ìsaoCIAhaybịđiệpviênNgalậttẩthời tiết 3 ngày những nhân viên làm việc tại trụ sở Tình báo Trung ương Mỹ CIA tại Langley, Virginia, cuối cùng cũng hy vọng tìm cách giải quyết các ẩn số lâu nay chưa được trả lời.

Một trong số đó là, vì sao các điệp viên của CIA trong vỏ bọc ngoại giao và ẩn mình rất kỹ trên khắp toàn cầu đều bị tình báo Nga khi đó là KGB lật tẩy. Hệ quả, rất nhiều chiến dịch bí mật đã bại lộ do các điệp viên nằm vùng bị chỉ điểm và nhân viên của CIA phải thoả hiệp, hoặc thậm chí tính mạng của họ bị đe doạ.

Trang Salon đăng tải bài viết của tác giả Jonathan Haslam giải thích, đó là các điệp viên Nga đã bị đánh giá quá thấp, trong khi các điệp viên CIA lại được để cao quá đáng.

Một trong những câu chuyện được kể lại đó là về Yuri Totrov – một huyền thoại thật sự được nhiều người sớm biết tới với câu chuyện tiếu lâm về giám đốc nhân sự mờ ám của CIA.

Chiến tranh Lạnh kết thúc, một nhân viên cấp cao và đầy kinh nghiệm được cử tới Nhật đề tìm Totrov và đưa cho ông này một số tiền lớn để mua lại các ‘hồi ký’ của ông. Totrov thẳng thừng đáp trả: “Anh chưa đọc những gì ghi trong hồ sơ của tôi ở Langley à? Trong đó đã nói rõ là ‘Không được bán”.

Vậy chính xác thì Totrov đã lập lại danh sách nhân sự của CIA mà không cần tiếp cận các hồ sơ đó, hay là những người sắp xếp chúng? Cách tiếp cận của ông đòi hỏi một sự kết hợp rất thông minh - gồm có sự am hiểu thâm sâu về hành vi con người, trí tuệ và logic chặt chẽ.

Trong thế giới của các mật vụ, nguyên tắc đầu tiên chính là binh pháp mà Tôn Tử đề ra: Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng.

KGB là cơ quan quan liêu trong một thể chế quan liêu là Liên bang Xô Viết. Bất kỳ công dân Liên Xô nào cũng quá quen với kiểu vận hành của các bộ máy quan liêu. Đó là các tạo vật về cơ bản được hình thành từ thói quen, cũng như với bất kỳ nhà giải mã nào, yếu tố then chốt để phá mã của đối phương đó chính là tìm những sự lặp lại. Điều này cũng tương tự như trong thế giới phản gián.

Sự khác biệt giữa Totrov và người dân nước ông là cho dù những người khác ở trong hay ngoài nước coi Liên Xô là một thể độc nhất, thì Totrov lại áp dụng hiểu biết về xã hội Liên Xô lên một xã hội mà bê ngoài thì có vẻ rất riêng biệt, nhưng dựa trên cách thức chính quyền vận hành thì thực tế chẳng có nhiều khác biệt: đó chính là với Hoa Kỳ.

Từ cuối những năm 1950, trong các nhiệm vụ tại Thái Lan và sau đó là tại Nhật – những nơi nằm trong tầm ảnh hưởng rất lớn của Mỹ, Totrov đã áp dụng các biện pháp đầu tiên của ông nhằm nhận diện các điệp viên Mỹ trên thực địa.

Trở lại Moscow, ông bắt đầu kết hợp một cách hệ thống các dữ liệu của KGB theo chiều hướng nhất quán có thể quan sát được từ việc bổ nhiệm các điệp viên CIA. Nghiên cứu này đã được mở rộng để đưa vào hồ sơ các đồng minh KGB là Cuba và khối Hiệp ước Vac-xa-va. Các nguồn tài liệu công khai của Hoa Kỳ cũng được khai thác triệt để. Và mọi dữ liệu được biên soạn từ cảnh sát địa phương đều được tiếp cận bất kể khi nào có thể.

Và rồi Totrov phát hiện ra một mô hình với 26 dấu hiệu không đổi khi nhận diện các điệp viên Mỹ ở hải ngoại. Một điệp viên phản gián nước ngoài tỉ mỉ có thể phát hiện ra một vài dấu hiệu khác thông thường hơn, chẳng hạn như: thực tế là các điệp viên CIA thế chỗ của nhau thường có xu hướng nhận một chức vụ tương tự trong thứ bậc của sứ quán, đi xe hơi cùng một hãng, thuê căn hộ chung một toà nhà… Vì sao? Bởi vì nhân viên CIA tại trụ sở ở Langley thoái thác trách nhiệm và không làm hết phận sự với các vị trí ở hải ngoại.

Tuy nhiên, với các dấu hiệu bất biến thì cần có sự nghiên cứu sâu hơn, dựa trên thực tế mà chính phủ Mỹ thiết lập từ lâu do bởi sự nửa yêu nửa ghét trong cách đối đãi của Bộ Ngoại giao với những người ‘anh em xa’ trong tình báo.

Do đó, một loạt các câu hỏi nhanh chóng được đặt ra làm bằng chứng: giữa một điệp viên trong vỏ bọc ngoại giao và một nhân viên đối ngoại (FSO) thì sự đối đãi khác nhau ở điểm nào? Mức chi tiêu cho nhân viên ngoại giao cao hơn nhiều so với một điệp viên CIA; sau ba hoặc bốn năm công tác nước ngoài, một FSO có thể về nước, nhưng một nhân viên tình báo thì không; FSO được tuyển mộ trong độ tuổi từ 21-31 còn nhân viên tình báo thì không; chỉ có FSO được tham gia Học viện Đối ngoại trong ba tháng trước khi nhận nhiệm vụ; người Mỹ nhập tịch không được làm FSO trong vòng 9 năm nhưng có thể làm đặc vụ; khi các nhân viên đặc vụ trở về nước, họ không xuất hiện bình thường trong danh sách của Bộ Ngoại giao; nếu họ xuất hiện thì họ được liệt vào dạng nghiên cứu và lên kế hoạch, nghiên cứu và tình báo, lãnh sự hoặc pháp lý cho các vấn đề an ninh; không như các FSO, nhân viên tình báo có thể thay đổi nơi làm việc mà không cần lý do nào cụ thể; các tiểu sử công khai của họ thường có những khoảng trống dễ thấy; các đặc vụ có thể được bố trí trở lại nước mà họ từng được điều tới còn FSO thì không; đặc vụ thường làm việc với hơn một ngoại ngữ; vỏ bọc của họ thường là nhân viên ‘lãnh sự’ hoặc ‘chính trị’; những lần tái tổ chức nội bộ của sứ quán thường không động chạm tới các điệp viên – bao gồm cả vị trí, không gian làm việc hay số điện thoại; nơi làm việc của các điệp viên được bố trí trong khu vực hạn chế qua lại trong sứ quán; họ có thể xuất hiện trên phố trong giờ làm việc, sử dụng các hộp điện thoại công cộng; họ có thể sắp xếp các cuộc hẹn cho buổi chiều, ở ngoại ô và thường vào lúc 7:30-8:00 tối; và trong khi các FSO phải tuân thủ nghiêm ngặt quy định tham gia tiệc tối, các điệp viên lại có thể không nhất thiết phải tham dự.

Thực tế Totrov có thể biên soạn thành một tập sách có cỡ ngang danh bạ điện thoại gồm các điệp viên của CIA cũng như các nhân viên tình báo khác cho lãnh đạo KGB Yuri Andropov thử nghiệm các khiếm khuyết về mặt cấu trúc trong chính quyền Mỹ trong mối quan hệ giữa các bộ then chốt trong phạm vi chính sách đối ngoại.

Những lỗ hổng then chốt mà Totrov đã chỉ ra sau đó được sơ đồ hoá và vẽ thành mô hình. Đây chính là hoạt động tình báo con người ở cấp cao nhất và một khi được biết đến, đó cũng là một mối nhức nhối cho những ai chịu trách nhiệm thực thi tình báo hải ngoại của Mỹ.

Lê Thu

本文地址:http://app.tour-time.com/html/586f198875.html
版权声明

本文仅代表作者观点,不代表本站立场。
本文系作者授权发表,未经许可,不得转载。

全站热门

Nhận định, soi kèo Kuwait vs Oman, 1h15 ngày 26/3: Khó cho khách

">

Microsoft: Windows 7 đã lỗi thời

">

GameSao gửi bạn list nhạc cực phê khi chơi Liên Minh Huyền Thoại

Đối với cộng đồng game thủ Việt Nam, đặc biệt là thế hệ 8x và 9x đời đầu thì Final Fantasy không chỉ là một trò chơi, mà gắn liền với nhiều kí ức tuổi trẻ thủa học trò. Đó cũng là thời điểm Final Fantasy trở thành một hiện tượng nổi tiếng khắp toàn cầu và ngay tại Việt Nam cũng vậy. Rất nhiều người không chơi game, nhưng lại thuộc làu làu giai điệu của Suteki Da Ne, Melodies Of Life... bởi sự phổ biến của những hình ảnh, giai điệu này khắp mọi nơi, từ những đĩa VCD nhạc cho đến mỗi cuốn vở bán ngoài tiệm tạp hóa.

Final Fantasy X là phiên bản gắn liền với tuổi thơ nhiều thế hệ game thủ Việt

Còn với những game thủ kì cựu của series game Final Fantasy, chắc chắn không thể nào quên những cái tên như Cloud, Tifa, Sephiroth trong Final Fantasy VII. Rinoa, Squall, Zell, Laguna, Selphie trong Final Fantasy VII, Zidane, Vivi trong Final Fantasy IX hay Yuna, Tidus trong Final Fantasy X. Thứ đã làm nên thành công của loạt game này không chỉ là gameplay, đồ họa đỉnh cao mà còn là những cung bậc cảm xúc đến từ những bản nhạc soundtrack được lồng ghép khéo léo vào cốt truyện ingame. Hãy cùng điểm qua 5 bản nhạc ấn tượng và xúc cảm nhất trong series Final Fantasy từ thủa sơ khai đến bây giờ:

1. Suteki Da Ne - Final Fantasy X

2. Melodies Of Life - Final Fantasy IX

3. Eyes On Me - Final Fantasy VIII

4. Real Emotion – Final Fantasy X

5. 1000 Words - Final Fantasy X

Có thể thấy trong danh sách này, phiên bản Final Fantasy X sở hữu nhiều bản “Hit” đình đám và được biết đến nhiều nhất trên toàn thế giới. Đó cũng là phiên bản đánh dấu một bước tiến lớn của hãng Square Enix trong việc phát triển đồ họa sản phẩm, đạt được nhiều thành công cả về mặt thương mại lẫn cộng đồng.

">

Những bản nhạc huyền thoại đã làm nên tên tuổi của series Final Fantasy

Nhận định, soi kèo Locri 1909 vs Igea Virtus, 20h30 ngày 26/3: Tin vào khách

{keywords}

Trang DigiTimes dẫn lời các nguồn tin trong ngành di động tiết lộ, Apple đang phát triển một "phiên bản nâng cao" của trợ lý ảo Siri cho thế hệ iPhone tiếp theo.

Các nguồn tin không nói rõ liệu phiên bản Siri mới này có xuất hiện trên iPhone 8 hay không, nhưng đều đề cập đến những thay đổi mang tính đột phá và một số tính năng mới Apple dự định bổ sung cho smartphone của hãng nhân dịp kỷ niệm 10 năm ra mắt. Vì vậy, nhiều người tin Siri nâng cấp có thể sẽ trình làng cùng iPhone 8.

Các nguồn tin rò rỉ cũng nhắc tới việc Táo khuyết đã thâu tóm Turi, một công ty khởi nghiệp chuyên về khả năng học hỏi của máy và trí thông minh nhân tạo (AI) hồi tháng 8 năm ngoái. Họ nói, việc này sẽ cho phép ông lớn công nghệ Mỹ "tăng cường hơn nữa tính năng cũng như thị phần" của Siri. Trợ lý ảo của Apple hiện đang phải cạnh tranh với các đối thủ như Cortana của Microsoft, Alexa của Amazon và Google Assistant.

Đối với Samsung, trợ lý AI mới có tên Bixby dự kiến sẽ đóng vai trò như một tính năng nổi bật của mẫu smartphone sắp ra mắt Galaxy S8. Theo các đồn đoán gần đây, Bixby thậm chí còn có nốt điều khiển riêng trên mẫu điện thoại flagship 2017 của đại gia công nghệ Hàn Quốc.

Trong khi đó, Google sẽ tiếp tục sẽ đưa trợ lý ảo Google Assistant "phủ sóng" tới nhiều thiết bị hơn, còn LG dự kiến sẽ tích hợp trợ lý ảo Alexa của Amazon vào mẫu flagship G6. Huawei, nhà kinh doanh smartphone lớn thứ 3 trên thế giới, đã công khai bày tỏ mong muốn cạnh tranh với Apple và Samsung về công nghệ AI.

Giới quan sát đánh giá, 2017 có thể là năm của các cuộc chiến trợ lý ảo smartphone.

Tuấn Anh(theo BGR)

">

iPhone 8 sẽ được nâng cấp trợ lý ảo?

50% hồ sơ thủ tục hành chính về GD&ĐT được xử lý online mức 3

Đề án “Tăng cường ứng dụng CNTT trong quản lý và hỗ trợ các hoạt động dạy - học, nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến năm 2025” vừa được Thủ tướng Chính phủ ra quyết định phê duyệt.

Đề án hướng tới mục tiêu tăng cường ứng dụng CNTT nhằm đẩy mạnh triển khai chính phủ điện tử, cung cấp dịch vụ công trực tuyến trong hoạt động quản lý, điều hành của cơ quan quản lý nhà nước về GD&ĐT ở trung ương và các địa phương; đổi mới nội dung, phương pháp dạy - học, kiểm tra, đánh giá, nghiên cứu khoa học và công tác quản lý tại các cơ sở giáo dục đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân góp phần hiện đại hóa và nâng cao chất lượng GD&ĐT.

Cụ thể, bên cạnh mục tiêu hình thành cơ sở dữ liệu toàn ngành GD&ĐT, Đề án cũng đặt mục tiêu đến năm 2020 phấn đấu 100% các cơ quan quản lý nhà nước về GD&ĐT, các cơ sở GD&ĐT thực hiện quản lý hành chính xử lý hồ sơ công việc trên môi trường mạng; 70% cuộc họp giữa các cơ quan quản lý nhà nước và cơ sở GD&ĐT được áp dụng hình thức trực tuyến; 70% lớp bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục được thực hiện qua mạng theo phương  thức học tập kết hợp (blended learning); 50% hồ sơ thủ tục hành chính được xử lý trực tuyến tối thiểu mức độ 3, trong đó 30% được xử lý trực tuyến ở mức độ 4.

Về đổi mới nội dung, phương pháp dạy - học, kiểm tra đánh giá, nghiên cứu khoa học và công tác quản lý, theo Đề án, đối với các cơ sở giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên, hình thành kho học liệu số dùng chung toàn ngành gồm bài giảng, sách giáo khoa điện tử, phần mềm mô phỏng và các học liệu khác. Mục tiêu cụ thể là đến năm  2020, phấn đấu 90% cơ sở giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên ứng dụng CNTT trong quản lý nhà trường, trong đó 70% trường học sử dụng sổ quản lý điện tử.

Với các cơ sở giáo dục đại học đại học và trường sư phạm, hình thành cổng thông tin thư viên điện tử toàn ngành liên thông, chia sẻ học liệu với các cơ sở đào tạo; áp dụng phương thức học tập kết hợp; phát triển một số mô hình đào tạo trực tuyến (cyber university).

Đề án cũng nêu rõ định hướng đến năm 2025 mức độ ứng dụng CNTT trong quản lý và hỗ trợ các hoạt động dạy - học, nghiên cứu khoa học đạt trình độ tiên tiến trong khu vực ASEAN, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT. CNTT trở thành động lực đổi mới quản lý, nội dung, phương pháp dạy - học, kiểm tra đánh giá trong GD&ĐT.

">

Năm 2020: 90% trường phổ thông thường xuyên ứng dụng CNTT trong quản lý

友情链接