Với trọng tâm chuyển đổi IPv6 cho cộng đồng, trong hơn 10 năm qua, kế hoạch hành động quốc gia về IPv6 đã đạt được những kết quả ấn tượng.
Tính đến hết năm 2020, Việt Nam đã có 34 triệu người dùng IPv6 với tỷ lệ sử dụng IPv6 trên Internet Việt Nam đạt 46%, gấp tới 1,7 lần trung bình toàn cầu. Việt Nam đứng thứ 2 khu vực ASEAN, thứ 4 Châu Á và thứ 10 toàn cầu, khẳng định vị thế trong khu vực và quốc tế. Mạng lưới, dịch vụ IPv6 của doanh nghiệp hoạt động tốt với 11 triệu thuê bao FTTH và hơn 34 triệu thuê bao di động IPv6.
Với khối CQNN, hiện đã có 33 địa phương và 4 bộ, ngành ban hành kế hoạch chuyển đổi IPv6; 13 Cổng thông tin điện tử của bộ, ngành, địa phương hoạt động tốt với IPv6; 20 địa phương và 11 bộ, ngành đã đăng ký sử dụng địa chỉ IP độc lập (IPv4, IPv6), sẵn sàng tài nguyên số phục vụ quy hoạch, hiện đại hóa mạng lưới, dịch vụ, phát triển hạ tầng số.
23 tập thể và 59 cá nhân có thành tích xuất sắc trong thực hiện Kế hoạch hành động quốc gia về IPv6 được trao Bằng khen của Bộ trưởng Bộ TT&TT. |
Thứ trưởng Nguyễn Huy Dũng nhận định, hành trình chuyển đổi Internet Việt Nam sang thế hệ mới hoạt động với địa chỉ IPv6 đã được bắt đầu từ những quyết định mạnh dạn, đúng đắn, kiên trì và hiệu quả; thể hiện rõ nhất bằng việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về IPv6 – đóng vai trò kim chỉ nam xuyên suốt một thập kỷ vừa qua.
Theo Thứ trưởng, kết quả triển khai IPv6 những năm qua là niềm tự hào của Việt Nam. “Nếu nói về các bảng xếp hạng thế giới, rất ít có những xếp hạng mà Việt Nam lọt vào Top 10 quốc gia làm tốt nhất. Chúng ta đã làm được điều này với việc thúc đẩy chuyển đổi sang IPv6”, Thứ trưởng nói.
100% cơ quan nhà nước chuyển đổi sang IPv6 vào năm 2025
Để định hướng, thúc đẩy, hỗ trợ khối cơ quan nhà nước chuyển đổi IPv6 thành công, ngày 14/1/2021, Bộ trưởng Bộ TT&TT đã ký Quyết định 38 phê duyệt Chương trình “IPv6 For Gov” giai đoạn 2021-2025.
Thứ trưởng Nguyễn Huy Dũng và các đại biểu thực hiện nghi thức khai trương Chương trình "IPv6 For Gov" giai đoạn 2021 - 2025. |
Theo ông Nguyễn Hồng Thắng, Giám đốc Trung tâm Internet Việt Nam (VNNIC), cơ quan được giao chủ trì triển khai Chương trình, trong 5 năm tới, Bộ TT&TT xác định thúc đẩy hỗ trợ chuyển đổi IPv6 Việt Nam sẽ tập trung vào khối CQNN.
Bộ TT&TT sẽ tiên phong và đồng hành cùng các bộ, ngành, địa phương trong quá trình chuyển đổi IPv6 cho mạng lưới, dịch vụ của CQNN; xúc tiến, hỗ trợ và đảm bảo cho việc thực hiện thành công toàn bộ quá trình chuyển đổi IPv6 cho mạng lưới, dịch vụ của CQNN.
Các mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể của Chương trình “IPv6 For Gov” trong 5 năm có thể khái quát theo hai giai đoạn lớn gồm: giai đoạn 2021 – 2022 với mục tiêu 50% bộ, ngành, địa phương ban hành Kế hoạch chuyển đổi IPv6 và chuyển đổi Cổng thông tin điện tử, Cổng dịch vụ công hoạt động tốt với IPv6; giai đoạn 2023 - 2025 với mục tiêu 100% mạng lưới, dịch vụ của CQNN chuyển đổi sang IPv6 và sẵn sàng hoạt động thuần IPv6.
Thứ trưởng Nguyễn Huy Dũng nhấn mạnh, thực hiện theo tinh thần chỉ đạo của Bộ trưởng về chuyển đổi số: “Việt Nam đi cùng nhịp với các nước trên thế giới trong ứng dụng công nghệ”, chúng ta đặt mục tiêu đi cùng nhịp với Mỹ, Trung Quốc và những nước tiên phong khác trong triển khai IPv6.
Khẳng định Bộ TT&TT sẽ đồng hành cùng các bộ, ngành, địa phương trong quá trình chuyển đổi IPv6, Thứ trưởng đề nghị các bộ, ngành, Sở TT&TT và các đơn vị chuyên trách về CNTT làm tốt vai trò hạt nhân, đơn vị tham mưu xây dựng, triển khai thành công kế hoạch chuyển đổi IPv6 của các bộ, ngành, địa phương; chủ động triển khai và đáp ứng tốt các mục tiêu, chỉ tiêu, tiêu chí của Chương trình.
Bộ TT&TT sẽ hoàn tất việc chuyển đổi IPv6 cho mạng lưới, dịch vụ của Bộ trước để làm hình mẫu tham khảo. Các CQNN thực hiện nhanh hơn quá trình xây dựng kế hoạch chuyển đổi IPv6 và chuyển đổi IPv6 cho Cổng thông tin điện tử, Cổng dịch vụ công. Phấn đấu ngay trong năm 2021, 100% bộ, ngành, địa phương ban hành kế hoạch chuyển đổi IPv6 và chuyển đổi IPv6 thành công cho Cổng thông tin điện tử.
Các doanh nghiệp viễn thông, Internet, doanh nghiệp CNTT cần chủ động tư vấn, cung ứng dịch vụ có hỗ trợ tính năng IPv6 cho các CQNN; chủ động rà soát, đầu tư nâng cấp hạ tầng, dịch vụ, phần cứng, phần mềm hỗ trợ IPv6 và phát triển các nền tảng hỗ trợ IPv6 như nền tảng của kinh tế số, định danh số, thanh toán điện tử… tiếp tục tham gia tiến trình chuyển đổi toàn bộ mạng Internet Việt Nam sang ứng dụng IPv6, hướng tới chỉ tiêu 100% người sử dụng truy cập Internet qua IPv6.
Các doanh nghiệp viễn thông, Internet đẩy nhanh cung cấp dịch vụ IPv6 tới người dùng trên diện rộng; hướng tới mục tiêu 100% người sử dụng IPv6 vào năm 2023. Các doanh nghiệp nội dung, các trung tâm dữ liệu, nền tảng điện toán đám mây lớn chuyển đổi cung cấp dịch vụ IPv6 mặc định ngay trong quý I/2021. Trạm trung chuyển lưu lượng quốc gia VNIX là nơi lý tưởng để kết nối, trao đổi lưu lượng Internet, IPv6.
Trung tâm VNNIC và các đơn vị thuộc Bộ TT&TT thực hiện tốt vai trò chủ trì, điều phối, tư vấn, hỗ trợ các bộ, ngành, địa phương trong chuyển đổi IPv6; chỉ đạo các doanh nghiệp viễn thông, ICT chuyển đổi IPv6 đồng bộ; tham mưu cho Bộ TT&TT các chính sách, kế hoạch và có biện pháp thúc đẩy cụ thể.
Là cơ quan thường trực, VNNIC cũng cần thực hiện tốt hơn vai trò trung tâm tổng hợp, theo dõi, giám sát thông tin để tương trợ hỗ trợ các đơn vị bám sát và hoàn tất các chỉ tiêu của chương trình.
“Các cơ quan, tổ chức, đơn vị hãy xác định tinh thần đi cùng nhau, làm cùng nhau và hoàn thành xuất sắc các mục tiêu trong Chương trình IPv6 cho CQNN như đã thực hiện Kế hoạch hành động quốc gia về IPv6”, Thứ trưởng đề nghị.
(Xem tư liệu Quyết định Phê duyệt chương trình thúc đẩy, hỗ trợ chuyển đổi sang IPv6 cho cơ quan nhà nước giai đoạn 2021 - 2025)
Vân Anh
ictnews Trên cơ sở các yếu tố đi đầu về ứng dụng IPv6, Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) đã lựa chọn Việt Nam là nước đầu tiên trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương (APAC) để tổ chức Chương trình đào tạo triển khai IPv6 trong mạng 5G.
" alt=""/>Công bố chương trình hỗ trợ chuyển đổi sang IPv6 cho cơ quan nhà nước đến năm 2025Cổng cung cấp dịch vụ công trực tuyến tích hợp Hệ thống thông tin một cửa điện tử của tỉnh Nam Định (gọi chung là Cổng dịch vụ công trực tuyến) đã được xây dựng và đưa vào vận hành tại địa chỉ dichvucong.namdinh.gov.vn từ tháng 7/2018.
Hệ thống Cổng dịch vụ công luôn được Sở TT&TT Nam Định vận hành ổn định; song tính đến tháng 3/2020, tổng số dịch vụ công trực tuyến mức 4 được cung cấp trên Cổng mới chỉ là 100 dịch vụ, chiếm 5,83%, xếp thứ 39/63 tỉnh, thành phố trong cả nước.
Tại thời điểm đó, số liệu thống kê trên cho thấy, nếu không triển khai quyết liệt, Nam Định khó có thể hoàn thành chỉ tiêu cung cấp 30% dịch vụ công trực tuyến mức 4 trong năm 2020 theo yêu cầu của Chính phủ tại Nghị quyết 17/2019.
Tuy nhiên, trong thông tin mới chia sẻ, Sở TT&TT tỉnh Nam Định cho biết, cơ quan này tiến hành làm việc với các đơn vị và tính đến ngày 6/1/2021 đã hỗ trợ 232/254 sở, ngành, địa phương hoàn thành cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức 4, bao gồm: 16/18 sở, ngành; 10/10 huyện, thành phố và 206/226 xã, phường, thị trấn.
Cụ thể, tính đến ngày 6/1/2021, Cổng dịch vụ công tỉnh Nam Định cung cấp 1.386 dịch vụ công trực tuyến mức 4, đạt tỷ lệ 79,84% và dự kiến đến giữa tháng 1/2021 sẽ nâng lên khoảng 90 - 92%.
Cũng theo số liệu của Sở TT&TT tỉnh Nam Định, ở cấp sở, ngành, tổng số dịch vụ công trực tuyến mức 4 được cung cấp cho người dân, doanh nghiệp là 1.075 dịch vụ, chiếm 76,45%. Số dịch vụ công trực tuyến mức 4 được cung cấp ở cấp huyện là 218 dịch vụ, đạt 100%. Con số này ở cấp xã, phường, thị trấn là 93/96 dịch vụ, chiếm 96,87%.
Đặc biệt, Nam Định đang là địa phương dẫn đầu trong cả nước khi có tới 943 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 được tích hợp, cung cấp trên Cổng dịch vụ công quốc gia. Cùng với đó, đã có 328 dịch vụ công của tỉnh Nam Định có phát sinh phí, lệ phí và tích hợp với Nền tảng thanh toán trực tuyến.
Người đứng đầu phải thực sự vào cuộc
Nhận xét về kết quả triển khai thúc đẩy dịch vụ công trực tuyến mức 4 của tỉnh Nam Định, đại diện Phòng Thông tin và dịch vụ công trực tuyến của Cục Tin học hóa cho hay: “Nam Định là tỉnh có lãnh đạo quyết liệt, làm đến nơi đến chốn và bám sát theo đúng định hướng, hướng dẫn của Bộ TT&TT”.
Chia sẻ bài học kinh nghiệm của địa phương mình, ông Trần Minh Đăng, Phó Giám đốc Sở TT&TT Nam Định cũng chỉ rõ, trước hết là sự chỉ đạo quyết liệt của Lãnh đạo tỉnh. “Làm ứng dụng CNTT, chuyển đổi số chắc chắn lãnh đạo tỉnh phải thực sự vào cuộc”, ông Đăng nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, vị Phó Giám đốc Sở TT&TT tỉnh Nam Định chỉ ra 2 yếu tố quan trọng khác để Nam Định có thể hoàn thành vượt mức chỉ tiêu cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức 4 trong thời gian ngắn, đó là: Nền tảng ứng dụng CNTT tốt, các ứng dụng của tỉnh như hệ thống quản lý văn bản, ký số, hệ thống một cửa điện tử… đã và đang vận hành rất tốt nên việc đưa lên dịch vụ công trực tuyến mức 4 không quá bỡ ngỡ với đội ngũ cán bộ, công chức; Đối tác triển khai là các công ty có nhiều kinh nghiệm trong việc phát triển Chính phủ điện tử và đô thị thông minh nên giải pháp kỹ thuật đơn giản mang tính tùy biến cao và dễ sử dụng.
Đại diện Sở TT&TT tỉnh Nam Định cho biết thêm, trong thời gian tới, Sở sẽ tập trung đẩy mạnh tuyên truyền rộng rãi trên truyền hình, báo giấy, báo điện tử, hệ thống truyền thanh cơ sở, mạng di động, mạng xã hội… để nhiều người dân, doanh nghiệp biết và sử dụng các dịch vụ công trực tuyến mức 4 đã được cung cấp trên Cổng dịch vụ công của tỉnh và Cổng dịch vụ công quốc gia.
Bên cạnh đó, Sở TT&TT Nam Định tăng cường công tác đảm bảo an toàn, an ninh thông tin cho hệ thống Công dịch vụ công của tỉnh, tránh để xảy ra lộ lọt thông tin, mất an toàn trong giao dịch trực trực tuyến. Đồng thời, sẵn sàng về mặt kỹ thuật để kết nối với 6 cơ sở dữ liệu quốc gia giúp việc xác thực người dùng, giảm các giấy tờ không cần thiết, giúp phần rút ngắn thời gian giải quyết dịch vụ công cho người dân, doanh nghiệp.
Vân Anh
Trong năm 2020, hành lang pháp lý cho phát triển Chính phủ điện tử đã cơ bản được hoàn thiện. Đặc biệt, những kết quả đạt được trong năm 2020 về xây dựng Chính phủ điện tử bằng nhiều năm trước cộng lại.
" alt=""/>Nam Định đã làm thế nào đẩy nhanh cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức 4?Sau khi khảo giá tại các dự án trong nội đô vợ chồng anh Công cho rằng chọn dự án xa trung tâm giá sẽ “mềm” hơn. Nhưng thực tế hiện nay giá bất động sản một số quận vùng ven tăng nhanh, thậm chí vượt cả khu trung tâm.
“Nhìn giá chung cư mà tôi sốc. Khu vực ngoài trung tâm, dự án Medoly Residences (Linh Đàm, Hoàng Mai) giá khoảng 45-50 triệu đồng/m2, Matrix One (Mỹ Đình, Nam Từ Liêm)) giá khoảng 60-70 triệu đồng/m2, Vinhomes Ocean Park (Long Biên) giá 42-45 triệu đồng/m2. Thậm chí, khu vực ngoài trung tâm còn xuất hiện nhiều dự án chung cư có giá lên tới 80 triệu đồng/m2” – anh Công cho hay.
Không chỉ chung cư, giá đất tại nhiều khu vực ngoài trung tâm, vùng ven Hà Nội cũng tăng chóng mặt trong thời gian qua. Như tại Mê Linh, vào cuối tháng 7, phiên đấu giá đối với 33 lô đất tại điểm X1, Tổ dân phố số 2, thị trấn Chi Đông (Mê Linh) đã thu hút 270 lượt khách tham gia. Kết quả, cả 33 lô đất đã được đấu giá thành công, giúp thu về gần 226 tỷ đồng, chênh gần 100 tỷ đồng so với giá khởi điểm. Giá trúng cao nhất lên tới gần 100 triệu đồng/m2, xác lập mức kỷ lục giá mới.
Ghi nhận tại Long Biên, Gia Lâm giá bất động sản ở các tuyến đường chính đã tăng gấp đôi so với cách đây 3 năm.
Khảo sát giá đất khu vực phố Thạch Cầu có giá 30-40 triệu đồng/m2, đất phường Ngọc Thuỵ ngõ 2-3m ở mức 30-50 triệu đồng/m2, mặt tiền đường chạm ngưỡng 70-100 triệu đồng/m2. Khu vực Đông Dư (Gia Lâm) hiện ở mức 40-55 triệu đồng/m2.
Không chỉ đất nền, giá bán của các loại hình bất động sản khác ở khu vực phía Đông như shophouse, chung cư, biệt thự, nhà liền kề…cũng liên tục lập mặt bằng mới. Biệt thự tại Vinhomes Riverside đến nay đã tăng đến vài lần so với giá gốc, hiện đạt mức trung bình 300 triệu/m2, có căn lên tới 400 triệu đồng/m2, đắt hơn cả những mảnh đất ở nhiều phố chính của Hà Nội. Biệt thự, liền kề, shophouse tại Vinhomes Ocean Park 1 mở bán 2018 đến 2021 cũng đã tăng 2-3 lần.
Báo cáo thị trường quý III/2022 của một đơn vị bất động sản cho thấy, dù thị trường có xu hướng hạ nhiệt nhưng giá bất động sản vẫn neo giá trong quý III vừa qua. Các hoạt động giao dịch bất động sản gặp rất nhiều khó khăn do giá bất động sản quá cao so với khả năng tài chính của không ít nhà đầu tư - người dân. Đáng chú ý, một số loại hình bất động sản thấp tầng như đất nền dự án, nhà riêng dù vắng khách mua nhưng giá rao bán vẫn không giảm.
Chuyên gia cho rằng, mặc dù thanh khoản và mức độ quan tâm đối với bất động sản thấp tầng giảm xuống, nhưng chỉ một số nhà đầu tư bị áp lực tài chính cần bán ra, còn lại phần lớn nhà đầu tư vẫn kỳ vọng cao ở phân khúc này, đặc biệt là những nhà đầu tư không bị áp lực dòng tiền. Do đó, trên thực tế, giá rao bán không giảm mà thậm chí tăng nhẹ so với quý liền trước.
Thị trường thanh lọc mạnh
Theo ông Hoàng Đình Khiêm – Chủ tịch HĐQT Vietstarland, nếu cách đây 5-10 năm ít ai nghĩ đến chuyện sang Đông Anh, Long Biên, Gia Lâm, Hưng Yên mua những căn biệt thự có giá lên đến hàng chục tỷ đồng thì nay mức giá thực tế tại nhiều dự án khu vực này đã lên 150 triệu đồng/m2, xuất hiện những căn biệt thự giá trị lớn lên đến gần trăm tỷ.
“Có một thực tế rằng trong 2 năm qua giá nhiều bất động sản tại nhiều khu vực vùng ven Hà Nội đã tăng gấp 2 thậm chí 3 lần. Nếu như năm 2020 căn biệt thự song lập tại Vinhomes Ocean Park chỉ có giá 14 tỷ thì đến đầu năm 2022, giá đã tăng vọt lên hơn 30 tỷ. Có những dự án nhà phố shophouse khu Đông giá lên tới 400 triệu đồng/m2, đắt ngang ngửa với những căn nhà mặt phố khu vực trung tâm” - ông Khiêm nói.
Thực tế, xu hướng tăng giá chung cư ở vùng ven đã diễn ra mạnh từ năm 2020 đến nay vẫn chưa dừng. Nhiều chuyên gia cho rằng, sự khan hiếm về nguồn cung căn hộ, tốc độ tăng giá của vật liệu xây dựng,... đã tác động đến giá căn hộ tại ven Hà Nội.
Giám đốc một sàn bất động sản đánh giá, bất động sản tại các khu ngoài trung tâm, vùng ven liên tục tăng giá trong những năm qua nhờ yếu tố hạ tầng. Nhiều dự án đường sá được đầu tư xây dựng có khả năng kết nối giữa các khu vực trung tâm ngày càng thuận lợi. Theo đó, giá bất động sản cũng tăng mạnh.
Tuy nhiên nhiều chuyên gia bất động sản nhận định, bất động sản vùng ven sẽ tịnh tiến bền vững theo hạ tầng và tốc độ tăng dân số, khó có chuyện tăng nóng như giai đoạn vừa qua. Nhà đầu tư chỉ nên mua bất động sản trong các dự án đầy đủ pháp lý, được quy hoạch đồng bộ bởi đây là những bất động sản mang giá trị sống gia tăng. Khi hoàn thành, những đô thị này sẽ là thỏi nam châm kéo làn sóng di dân của Hà Nội. Cùng với đó, các nhà đầu tư cần xác định đầu tư bền vững trong trung hạn từ 3-5 năm bởi thị trường hiện tại việc lướt sóng đã không còn mang lại hiệu quả.
Đối với người mua nhà ở thực vay vốn để mua chung cư phục vụ nhu cầu để ở, cân đối trong việc vay ngân hàng tại thời điểm này chuyên gia khuyến nghị người mua nhà có thể vay tới 60% giá trị bất động sản. Tuy nhiên phần trả gốc lãi hàng tháng chỉ nên chiếm từ 20-30% thu nhập của gia đình. Nếu khách mua đầu tư chỉ nên vay khoảng 30-40% và tiền trả gốc lãi chỉ chiếm khoảng 20% thu nhập.
Dự báo về thị trường bất động sản cuối năm theo chuyên gia giai đoạn này vẫn đang trong quá trình thanh lọc mạnh, chỉ những chủ đầu tư đủ tiềm lực và có phương án kinh doanh đúng hướng mới thu được kết quả tốt. Bên cạnh đó, nhà đầu tư muốn tăng tốc hiệu quả cũng cần có kiến thức và am hiểu thị trường hơn.