
Trao đổi với VietNamNet xung quanh vấn đề chuẩn bị nguồn lực giáo viên cho chương trình giáo dục phổ thông mới, GS Nguyễn Văn Minh cho rằng các trường sư phạm đang vào cuộc quyết liệt. |
GS Nguyễn Văn Minh khẳng định các trường ĐH sư phạm đang vào cuộc quyết liệt chuẩn bị đội ngũ giáo viên cho chương trình mới. Ảnh: Lê Văn. |
Một số ý kiến cho rằng chương trình giáo dục phổ thông tổng thể ôm đồm, khá nặng với nhiều môn học, không như mục tiêu của chương trình là giảm gánh nặng cho học sinh. Ông nghĩ sao?
- GS.TS Nguyễn Văn Minh: Chúng ta cần nhìn nhận chương trình tổng thể mới chỉ là một bộ khung. Băn khoăn này cũng là một cảnh báo để chương trình môn học làm sao cho thật phù hợp.
Tuy nhiên, trước khi chúng ta nói nhiều môn học thì cũng nên có sự so sánh. Chương trình tiểu học hiện tại là 11 môn bắt buộc và 2 hoạt động khác, trong khi đó trong dự thảo chỉ còn 8 môn với lớp 1 và 2, có 9 môn ở lớp 3 và 11 môn đối với các lớp 4 và 5. Nếu nhìn nhận rộng hơn, chương trình của các nước Anh, Đức với các cấp học tương tự như vậy thì số đầu môn của chúng ta vẫn thấp hơn.
Trước đây, do việc thi cử nặng nề, cách dạy, cách học theo phương pháp truyền tải kiến thức là chủ yếu, đã tạo nên tâm lí lo lắng cho học sinh, phụ huynh thì tôi nghĩ rằng các nhà soạn thảo chương trình sẽ có những đúc rút điều chỉnh để không lặp lại những khó khăn mà phụ huynh và xã hội đang lo lắng.
Nhiều ý kiến cho rằng nếu đổi mới ngay thì nguồn lực giáo viên hiện tại chưa đáp ứng được, ông có ý kiến gì về điều này?
- Chúng ta biết rằng thầy cô là yếu tố quyết định thành công của đổi mới. Là một trường đào tạo giáo viên các cấp thì tôi nghĩ, chúng tôi phải làm sao chuẩn bị thật tốt để hỗ trợ các thầy cô khi triển khai chương trình giáo dục mới. Tất nhiên nhà trường cũng đã chuẩn bị các chuyên đề để bồi dưỡng, trong quá trình này chúng tôi cũng đã lấy ý kiến các trường để có thể triển khai sớm nhất.
Phía thầy cô, để đổi mới một thói quen là rất khó. Và chúng ta đổi mới cả cách nghĩ, cách làm thì điều đó càng khó hơn. Tuy nhiên, sự đồng hành và vào cuộc chủ động của các thầy cô cùng với các trường sư phạm, các bộ ban ngành, đặc biệt là các địa phương thì chúng ta có thể từng bước tạo nên sự chuyển biến tích cực.

|
Chương trình tiểu học mới dự kiến chỉ còn 8 môn với lớp 1 và 2, có 9 môn ở lớp 3 và 11 môn đối với các lớp 4 và 5. Ảnh Thanh Hùng |
Các trường sư phạm mà cụ thể là Trường ĐH Sư phạm Hà Nội đã đổi mới như thế nào để chuẩn bị cho chương trình giáo dục phổ thông mới, thưa ông?
- Sau khi có Nghị quyết 29 các trường đại học sư phạm đã chủ động ngồi lại với nhau, chúng tôi đã chuẩn bị xây dựng chương trình. Năm 2014, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội đã khởi xướng và đã áp dụng việc này. Hiện tại trong 7 trường sư phạm đã thống nhất sử dụng 70% chương trình do trường chúng tôi xây dựng.
Việc này chưa phải kết thúc, mà xây dựng chương trình bao giờ cũng là một quá trình, chúng ta tiếp tục đổi mới làm sao để thích ứng với yêu cầu của chương trình mới.
Mặt khác nhà trường cũng chuẩn bị các chuyên đề bồi dưỡng. Thực ra việc này các trường cũng làm cách đây mấy năm và làm liên tục, sau đó lấy ý kiến các cơ sở. Chúng tôi đang rà soát để làm sao việc bồi dưỡng diễn ra tốt nhất ở giai đoạn tới, để giáo viên yên tâm rằng khi có chương trình thì các trường sư phạm sẽ bồi dưỡng để đảm đương được.
Chúng tôi sẽ làm khảo sát đối với các thầy cô đang giảng dạy, những gì thầy cô cần và còn thiếu. Không phải là triển khai kiểu “hàng ngang”, vì chúng ta đang phát triển theo năng lực học sinh, các thầy cô thiếu gì thì chúng ta bù đắp cái đó.
Trong dự thảo có đưa ra một số môn học mới, vậy việc chuẩn bị đội ngũ cho các môn học này như thế nào?
- Vấn đề này các trường sư phạm cũng đã làm việc với nhau từ năm 2014.
Thời điểm đó chúng tôi đã dự tính môn học mới theo xu thế giới và chúng ta không thể đi riêng, những chuyên đề như tích hợp, hoạt động trải nghiệm sáng tạo, kinh tế và pháp luật, thiết kế và công nghệ cũng đã có sự chuẩn bị phần nào rồi.
Một số môn liên quan về nghệ thuật cũng đã được nhà trường đặt ra nên sinh viên ra trường từ năm 2018 ở các khoa, ngành này sẽ đảm bảo chất lượng.
Các chương trình đào tạo, bồi dưỡng giáo viên những môn học này cũng đã được chúng tôi xây dựng thành các chuyên đề và gửi cho nhiều sở để lấy ý kiến phản hồi.
Các trường sư phạm đã và đang vào cuộc quyết liệt nên việc chuẩn bị đội ngũ giáo viên, theo tôi là không quá lo lắng.
Xin cảm ơn ông!
Hà Phương
" alt="Hiệu trưởng ĐH Sư phạm Hà Nội: Không quá lo về giáo viên cho chương trình mới"/>
Hiệu trưởng ĐH Sư phạm Hà Nội: Không quá lo về giáo viên cho chương trình mới

- Bộ trưởng Bộ GD-ĐT vừa ban hành Thông tư hướng dẫn danh mục khung vị trí việc làm và định mức số lượng người làm việc trong các cơ sở giáo dục phổ thông công lập.Theo đó, định mức số lượng người làm việc cấp tiểu họccụ thể như sau:
Mỗi trường có 1 hiệu trưởng.
Trường TH có từ 28 lớp trở lên đối với trung du, đồng bằng, thành phố, 19 lớp trở lên đối với miền núi, vùng sâu, hải đảo; trường phổ thông dân tộc bán trú cấp TH và trường dành cho người khuyết tật cấp TH được bố trí 2 phó hiệu trưởng; Trường có từ 27 lớp trở xuống đối với trung du, đồng bằng, thành phố, 18 lớp trở xuống đối với miền núi, vùng sâu, hải đảo được bố trí 1 phó hiệu trưởng; Trường có từ 5 điểm trường trở lên ngoài điểm trường chính được bố trí thêm 1 phó hiệu trưởng.
Trường TH dạy học 1 buổi trong ngày được bố trí tối đa 1,20 giáo viên/lớp; Trường dạy học 2 buổi trong ngày; trường phổ thông dân tộc bán trú cấp TH và trường dành cho người khuyết tật cấp TH được bố trí tối đa 1,50 giáo viên/lớp.
 |
Ảnh minh họa: Thanh Hùng. |
Ngoài định mức quy định trên, mỗi trường TH; trường phổ thông dân tộc bán trú cấp TH và trường dành cho người khuyết tật cấp TH được bố trí 1 giáo viên làm Tổng phụ trách Đội.
Nhân viên Thư viện, thiết bị; công nghệ thông tin: Trường có từ 28 lớp trở lên đối với trung du, đồng bằng, thành phố, 19 lớp trở lên đối với miền núi, vùng sâu, hải đảo; trường phổ thông dân tộc bán trú cấp TH và trường dành cho người khuyết tật cấp TH được bố trí tối đa 2 người; trường có từ 27 lớp trở xuống đối với trung du, đồng bằng, thành phố, 18 lớp trở xuống đối với miền núi, vùng sâu, hải đảo được bố trí tối đa 1 người.
Nhân viên Văn thư; kế toán; y tế và thủ quỹ: Trường có từ 28 lớp trở lên đối với trung du, đồng bằng, thành phố, 19 lớp trở lên đối với miền núi, vùng sâu, hải đảo và trường phổ thông dân tộc bán trú cấp TH được bố trí tối đa 3 người; trường có từ 27 lớp trở xuống đối với trung du, đồng bằng, thành phố, 18 lớp trở xuống đối với miền núi, vùng sâu, hải đảo được bố trí tối đa 2 người; Trường dành cho người khuyết tật cấp TH được bố trí tối đa 4 người.
Nhân viên giáo vụ: Trường dành cho người khuyết tật cấp TH được bố trí tối đa 2 người.
Nhân viên hỗ trợ giáo dục người khuyết tật: Với trường dành cho người khuyết tật cấp TH, cứ 15 học sinh khuyết tật được bố trí tối đa 1 người. Với các trường phổ thông cấp TH có học sinh khuyết tật học hòa nhập, căn cứ vào số lượng học sinh khuyết tật học hòa nhập theo từng năm học, trường có dưới 20 học sinh khuyết tật có thể bố trí tối đa 1 người; trường có từ 20 học sinh khuyết tật trở lên có thể bố trí tối đa 2 người.
Định mức số lượng người làm việc trong trường cấp THCSnhư sau:
Mỗi trường có 1 hiệu trưởng.
Trường THCS có từ 28 lớp trở lên đối với trung du, đồng bằng, thành phố, 19 lớp trở lên đối với miền núi, vùng sâu, hải đảo; trường phổ thông dân tộc bán trú cấp THCS; trường phổ thông dân tộc nội trú huyện và trường dành cho người khuyết tật cấp THCS được bố trí 2 phó hiệu trưởng; Trường THCS có từ 27 lớp trở xuống đối với trung du, đồng bằng, thành phố, 18 lớp trở xuống đối với miền núi, vùng sâu, hải đảo được bố trí 1 phó hiệu trưởng.
Mỗi trường THCS được bố trí tối đa 1,90 giáo viên/lớp;
Trường phổ thông dân tộc nội trú huyện; trường phổ thông dân tộc bán trú cấp THCS và trường dành cho người khuyết tật cấp THCS được bố trí tối đa 2,20 giáo viên/lớp;
Ngoài ra, mỗi trường THCS; trường phổ thông dân tộc bán trú cấp THCS; trường phổ thông dân tộc nội trú huyện và trường dành cho người khuyết tật cấp THCS được bố trí 1 giáo viên làm Tổng phụ trách Đội.
Nhân viên Thư viện; thiết bị, thí nghiệm; công nghệ thông tin: Trường THCS có từ 28 lớp trở lên đối với trung du, đồng bằng, thành phố, 19 lớp trở lên đối với miền núi, vùng sâu, hải đảo và trường phổ thông dân tộc nội trú huyện được bố trí tối đa 3 người; Trường THCS có từ 27 lớp trở xuống đối với trung du, đồng bằng, thành phố, 18 lớp trở xuống đối với miền núi, vùng sâu, hải đảo được bố trí tối đa 2 người; Trường phổ thông dân tộc bán trú cấp THCS tùy vào số lượng lớp học mà áp dụng theo quy định; Trường dành cho người khuyết tật cấp THCS được bố trí 1 người.
Nhân viên Văn thư; kế toán; y tế và thủ quỹ: Trường THCS và trường phổ thông dân tộc bán trú cấp THCS được bố trí 3 người; Trường phổ thông dân tộc nội trú huyện và trường dành cho người khuyết tật cấp THCS được bố trí tối đa 4 người; Các trường phổ thông cấp THCS có từ 40 lớp trở lên được bố trí thêm 1 người.
Nhân viên giáo vụ: Trường phổ thông dân tộc nội trú huyện và trường dành cho người khuyết tật cấp THCS được bố trí tối đa 2 người.
Nhân viên hỗ trợ giáo dục người khuyết tật: Với trường dành cho người khuyết tật cấp THCS, cứ 15 học sinh khuyết tật được bố trí tối đa 1 người. Với các trường phổ thông cấp THCS có học sinh khuyết tật học hòa nhập, căn cứ vào số học sinh khuyết tật học hòa nhập theo từng năm học, trường có dưới 20 học sinh khuyết tật có thể bố trí tối đa 1 người; trường có từ 20 học sinh khuyết tật trở lên có thể bố trí tối đa 2 người.
 |
Ảnh minh họa: Thanh Hùng. |
Định mức số lượng người làm việc trong trường cấp THPT như sau:
Mỗi trường có 1 hiệu trưởng.
Trường THPT có từ 28 lớp trở lên đối với trung du, đồng bằng, thành phố, 19 lớp trở lên đối với miền núi, vùng sâu, hải đảo; trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh và trường THPT chuyên được bố trí 3 phó hiệu trưởng; Trường THPT có từ 18 đến 27 lớp đối với trung du, đồng bằng, thành phố, 10 đến 18 lớp đối với miền núi, vùng sâu, hải đảo được bố trí 2 phó hiệu trưởng; Trường THPT có từ 17 lớp trở xuống đối với trung du, đồng bằng, thành phố, 9 lớp trở xuống đối với miền núi, vùng sâu, hải đảo được bố trí 1 phó hiệu trưởng.
Mỗi trường THPT được bố trí tối đa 2,25 giáo viên/lớp; Trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh được bố trí tối đa 2,40 giáo viên/lớp; Trường THPT chuyên được bố trí tối đa 3,10 giáo viên/lớp.
Nhân viên Thư viện; thiết bị, thí nghiệm; công nghệ thông tin: Trường THPT có từ 28 lớp trở lên đối với trung du, đồng bằng, thành phố, 19 lớp trở lên đối với miền núi, vùng sâu, hải đảo được bố trí tối đa 3 người; Trường THPT có từ 27 lớp trở xuống đối với trung du, đồng bằng, thành phố, 18 lớp trở xuống đối với miền núi, vùng sâu, hải đảo được bố trí tối đa 2 người; Trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh được bố trí tối đa 4 người; trường THPT chuyên được bố trí tối đa 7 người.
Nhân viên Văn thư; kế toán; y tế; thủ quỹ: Mỗi trường THPT được bố trí tối đa 3 người; Trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh và trường THPT chuyên được bố trí tối đa 4 người.
Trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh có quy mô trên 400 học sinh và trường phổ thông cấp THPT có từ 40 lớp trở lên được bố trí thêm 1 người.
Nhân viên giáo vụ: Trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh và trường THPT chuyên được bố trí tối đa 2 người.
Nhân viên hỗ trợ giáo dục người khuyết tật: Với các trường phổ thông cấp THPT có học sinh khuyết tật học hòa nhập, căn cứ số học sinh khuyết tật học hòa nhập theo từng năm học, trường có dưới 20 học sinh khuyết tật có thể bố trí tối đa 1 người; trường có từ 20 học sinh khuyết tật trở lên có thể bố trí tối đa 2 người.
Về lao động hợp đồng: Các trường được bố trí lao động hợp đồng để thực hiện nhiệm vụ vệ sinh, bảo vệ. Trường có tổ chức cho học sinh ăn bán trú, nội trú có thể bố trí lao động hợp đồng để thực hiện công việc nấu ăn cho học sinh.
Căn cứ vào tính chất, khối lượng công việc và điều kiện thực tế, các trường xác định số lượng lao động hợp đồng đối với từng vị trí, trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và tổ chức thực hiện.
Thông tư này có hiệu lực thi hành từ ngày 28/8/2017.
Thanh Hùng
" alt="Quy định mới về định mức số người làm việc trong cơ sở giáo dục phổ thông công lập"/>
Quy định mới về định mức số người làm việc trong cơ sở giáo dục phổ thông công lập